Đời sống văn hóa của đồng bào dân tộc Mường tại Ninh Bình |
Theo đánh giá của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình, dù gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG), song với những điều chỉnh, rút kinh nghiệm kịp thời và được sự hỗ trợ giúp đỡ của Trung ương, đến nay các chương trình đều đã đạt tiến độ, đem lại hiệu quả cao với những con số để lại dấu ấn tốt đẹp.
Cụ thể, giai đoạn 2021-2025, trước khi hợp nhất 3 tỉnh Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình, các địa phương trên địa bàn tỉnh Ninh Ninh Bình (cũ) đã triển khai 3 CTMTQG gồm: Xây dựng nông thôn mới; Giảm nghèo bền vững và Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Sau hợp nhất, tổng nguồn vốn ngân sách nhà nước huy động và bố trí thực hiện các CTMTQG trên địa bàn tỉnh là 3.586,74 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương 1.152,764 tỷ đồng, ngân sách tỉnh 2.433,976 tỷ đồng.
Đối với CTMTQG giảm nghèo bền vững, tỉnh đã triển khai nhiều chính sách cụ thể, thiết thực nhằm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, hỗ trợ hộ nghèo phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo bền vững. Các chính sách tiêu biểu gồm: hỗ trợ vay vốn tín dụng, sửa chữa và xây mới nhà ở, cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí, miễn giảm học phí và chi phí học tập, hỗ trợ tiền điện sinh hoạt, đào tạo nghề, trợ giúp pháp lý... Đến hết 6 tháng đầu năm 2025, toàn tỉnh còn 3.892 hộ nghèo (tỷ lệ 1,36%, giảm 0,15% so với cuối năm 2024) và 5.112 hộ cận nghèo (tỷ lệ 1,78%, giảm 0,01% so với cuối năm 2024).
Đối với CTMTQG xây dựng nông thôn mới (NTM), giai đoạn 2021-2025, cả ba tỉnh (trước hợp nhất) đều triển khai đồng bộ, hiệu quả và hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra. Sau hợp nhất, tỉnh Ninh Bình là tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM, với 97/97 xã (100%) đạt chuẩn NTM, trong đó có 65 xã (67%) đạt chuẩn NTM nâng cao và 4 xã (4,1%) đạt chuẩn NTM kiểu mẫu. Toàn tỉnh có 980 sản phẩm OCOP đạt từ 3 sao trở lên, gồm 3 sản phẩm 5 sao, 153 sản phẩm 4 sao và 824 sản phẩm 3 sao.
Đối với CTMTQG phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã được rải nhựa hoặc bê tông; 100% thôn có đường ô tô đến trung tâm được cứng hóa; 100% trường, lớp học được xây dựng kiên cố; 100% hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia hoặc nguồn điện khác phù hợp.
Tỷ lệ trẻ mẫu giáo 5 tuổi ra lớp đạt 99,8%; tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em là 15%; tỷ lệ lao động trong độ tuổi qua đào tạo đạt 60%, phù hợp với điều kiện của đồng bào dân tộc thiểu số.
Đến nay, các CTMTQG đã góp phần cải thiện điều kiện sống, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân nông thôn, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo và nhóm yếu thế. Hạ tầng nông thôn được đầu tư đồng bộ, hiện đại; kinh tế nông thôn ngày càng đa dạng; thu nhập và đời sống người dân không ngừng được nâng lên. Các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, nước sạch, thông tin... được cải thiện rõ rệt, góp phần giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo, bảo đảm an ninh trật tự và phát triển bền vững.